Dệt may Việt Nam: Làm gì để hóa giải thách thức từ thị trường EU?
'Xanh hoá' sản xuất là giải pháp đế doanh nghiệp dệt may Việt Nam nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh để 'chinh phục' thị trường châu Âu một cách bền vững.
Ngành dệt may Việt Nam vốn có kim ngạch xuất khẩu hơn 40 tỷ USD/năm, tạo việc làm cho hơn 2,5 triệu lao động, đang phải đối mặt với yêu cầu cao hơn về xuất xứ, môi trường từ các thị trường khó tính như EU. Ông Hoàng Xuân Hiệp - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghiệp và Thương mại Hà Nội đã có chia sẻ về vấn đề này với Báo Công Thương.

"Xanh hoá" sản xuất là cơ hội để dệt may Việt Nam duy trì tăng trưởng xuất khẩu. Ảnh: TTXVN
Nhiều dư địa để cho hàng dệt may Việt Nam vào EU
- Thưa ông, trong bối cảnh yêu cầu, đòi hỏi khắt khe về chất lượng sản phẩm từ thị trường quốc tế như Mỹ, EU, ông đánh giá gì về năng lực cạnh tranh của dệt may Việt Nam?
Ông Hoàng Xuân Hiệp: Ngành dệt may Việt Nam có thể thấy rõ là đang cạnh tranh rất sòng phẳng với ngành dệt may thế giới. Điều này thể hiện rõ khi xuất khẩu dệt may trong tháng 7,8 năm 2025 tăng trưởng mạnh, đạt mức xuất khẩu 2 tháng hơn 4,4 tỷ USD.
Tại thị trường Mỹ, thị phần của ngành dệt may Việt Nam đã vươn lên khoảng 21 - 22%, trong khi thị phần của Trung Quốc lại giảm. Xét đến số liệu của 9,10 tháng năm 2025, thị trường Mỹ vẫn chiếm trên 40% kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam. Điều đó cho thấy năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam tại Mỹ không giảm mà trong xu thế tăng.
Riêng thị trường EU, nhập khẩu hàng năm khoảng 250 tỷ USD (trừ nhập khẩu nội khối gần 100 tỷ USD). Thị phần của ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu vào EU khoảng 4,5 - 4,7 tỷ USD, tương đương 10 - 11% thị phần. Trong khi đó, thị phần của các nước khác vào EU còn rất lớn, như Trung Quốc trên 22% hay Bangladesh khoảng 21 - 23%. Cho thấy dư địa để cho ngành dệt may Việt Nam vào EU vẫn rất tốt.
- Đối với thị trường EU, Hiệp định EVFTA đã "mở đường" để dệt may chinh phục thị trường tiềm năng này, nhưng nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn gặp rào cản về quy tắc xuất xứ, lao động và môi trường. Quan điểm của ông về vấn đề này?
Ông Hoàng Xuân Hiệp: Trong tổng số hơn 14.000 doanh nghiệp của ngành dệt may, chiếm tới 80 - 88% là các doanh nghiệp chỉ có dưới 200 lao động. Với quy mô như vậy, hạn chế về vốn, tài chính và nhân lực họ sẽ gặp khó khăn lớn khi xuất khẩu vào các thị trường yêu cầu khó tính như EU.
Tuy nhiên, không phải không có giải pháp. Nhiều quốc gia có ngành kinh tế dệt may phát triển như Trung Quốc đã sử dụng mô hình khu công nghiệp dệt may lớn để giải quyết khó khăn khi xuất khẩu sang bất cứ thị trường nào, kể cả thị trường châu Âu. Nếu Việt Nam có từ 5-7 khu công nghiệp, với mức xuất khẩu khoảng 7 tỷ USD/ năm sẽ giúp chúng ta hoàn thành mục tiêu xuất khẩu 70 tỷ USD năm 2030.
Theo đó, chúng ta có thể tổ chức mô hình tập trung doanh nghiệp may, doanh nghiệp sợi, doanh nghiệp dệt với quy mô khoảng 500 ha, 70.000 lao động, công suất 1 tỷ mét vải/năm (tương đương 700 triệu áo sơ mi). Khi vào khu công nghiệp, doanh nghiệp nhỏ sẽ được hưởng lợi từ xử lý nước thải tập trung, hạ tầng logistic, đào tạo nhân lực, tiêu chuẩn BSCI về trách nhiệm xã hội… Như vậy, họ sẽ dễ thỏa mãn các tiêu chuẩn xuất xứ, lao động, môi trường của châu Âu.
Tuy nhiên muốn có khu công nghiệp diệt may lớn như thế hoặc là muốn đầu tư sản xuất xanh chúng ta phải có vốn, phải có rất nhiều chính sách hỗ trợ, bởi đầu tư sản xuất xanh phải cao hơn đầu tư bình thường. Như vậy giá thành sẽ đẩy cao lên, mặt khác đầu tư tăng nhưng nếu không xác lập được quản trị được rủi ro ở đầu ra các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ lại càng gặp rủi ro nhiều hơn.

Ông Hoàng Xuân Hiệp - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghiệp và Thương mại Hà Nội. Ảnh: Quốc Chuyển
Ứng dụng công nghệ mới để nâng cao năng suất
- Trong bối cảnh yêu cầu "xanh hóa" ngày càng khắt khe từ thị trường châu Âu, theo ông, các doanh nghiệp dệt may cần ưu tiên những giải pháp nào để thúc đẩy xuất khẩu và giữ vững năng lực cạnh tranh?
Ông Hoàng Xuân Hiệp: Để tận dụng Hiệp định EVFTA, thúc đẩy xuất khẩu dệt may vào thị trường EU dệt may phải nâng cao năng suất, chất lượng. Bởi thực tế, so với năng lực cạnh tranh với một số các quốc gia như Bangladesh chúng ta có rất ít lợi thế khi thuế vào thị trường EU của Bangladesh là bằng 0 trong khi thuế của Việt Nam là 9,6%. Ngoài ra, mức lương thu nhập của lao động Bangladesh chỉ có khoảng trên 100 USD/tháng, rong khi thu nhập của lao động diệt may Việt Nam bây giờ là gần 400 USD/tháng.
Như vậy, doanh nghiệp phải ứng dụng các công cụ để thể chuyển đổi xanh, trong đó cần tập trung đầu tư nhà máy đáp ứng tiêu chuẩn xanh. Ví dụ sử dụng 30% là năng lượng tái tạo, hay dùng động cơ nước, dùng động cơ nhỏ để giảm phát thải… Cùng với đó, doanh nghiệp cũng phải chuẩn bị hệ thống hộ chiếu số, tức là đòi hỏi doanh nghiệp diệt may phải có nền tảng số nhất định ở mức độ có thể truy xuất được toàn bộ các nguồn nguyên liệu từ đầu vào, quá trình sản xuất, xuất khẩu mới có thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường châu Âu.
- Trước xu hướng "xanh hóa" chuỗi cung ứng, Nhà trường có chương trình hay kế hoạch hành động cụ thể nào về đào tạo, nghiên cứu, hỗ trợ doanh nghiệp dệt may đáp ứng các tiêu chí của EU?
Ông Hoàng Xuân Hiệp: Công tác đào tạo phải xuất phát từ nhu cầu sử dụng nhân lực của doanh nghiệp và của nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số và chuyển đổi xanh đang diễn ra mạnh mẽ. Theo đó, đào tạo nguồn nhân lực hiện nay cần hướng vào ba yếu tố: đổi mới chương trình đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất phục vụ đào tạo.
Về chương trình đào tạo, Nhà trường đã tích hợp nhiều kỹ năng số và kỹ năng xanh vào chương trình học của sinh viên. Chẳng hạn, sinh viên ngành thời trang được học hệ thiết kế 3D với vật liệu tái chế trên môi trường ảo, từ đó có thể làm việc trực tiếp với khách hàng nước ngoài. Đối với nhóm ngành sợi, dệt, nhuộm, sinh viên được đào tạo theo các công nghệ phát thải thấp phù hợp với xu hướng sản xuất bền vững.
Đối với hoạt động giảng dạy, đội ngũ giảng viên được yêu cầu cập nhật đầy đủ các quy định liên quan đến xuất xứ hàng hóa, yêu cầu về chất lượng từ kiểu dáng, màu sắc đến các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường châu Âu. Đồng thời, giảng viên cũng triển khai các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng chuyển đổi số, công nghệ số và chuyển đổi xanh nhằm nâng cao năng suất, đáp ứng yêu cầu của chuỗi cung ứng bền vững, trong đó có thị trường châu Âu.
Về cơ sở vật chất, Nhà trường chú trọng xây dựng nền tảng đào tạo hiện đại. Các mô hình nhà máy thông minh được đưa vào chương trình học, cùng với các cuộc thi về tái chế, thiết kế sản phẩm hoặc xây dựng mô hình kinh tế chia sẻ. Đây đều là những nền tảng quan trọng giúp sinh viên được tiếp cận thực hành, hình thành kỹ năng số và kỹ năng xanh, những yêu cầu thiết yếu đối với nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay.
- Xin cảm ơn ông!
Theo ông Hoàng Xuân Hiệp, để hỗ trợ doanh nghiệp dệt may chuyển đổi xanh hiệu quả, cần có cơ chế khuyến khích về tài chính và thuế. Những doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất xanh, công nghệ mới hoặc các hệ thống số giúp theo dõi, kiểm soát dấu vết carbon nên được hưởng ưu đãi thuế trong phạm vi WTO cho phép. Đây sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư và đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững của thị trường EU.















