Đẩy mạnh “bơm” vốn cho vay chương trình lúa gạo, thủy sản, rau màu
Từ Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp, đến các chương trình phát triển thủy sản và rau màu, nguồn vốn ngân hàng đang trở thành “chìa khóa” giúp nông dân, doanh nghiệp và chính quyền địa phương liên kết bền vững, nâng cao năng suất, giảm rủi ro và tăng sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Sau khi được phê duyệt năm 2023, Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030” đã nhanh chóng đi vào triển khai. Đây được xem là bước ngoặt chiến lược với mục tiêu tăng năng suất, thu nhập cho nông dân, đồng thời tạo dựng lại vị thế của gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế - nơi chất lượng, tiêu chuẩn “xanh” và khả năng truy xuất nguồn gốc ngày càng được coi trọng.
Ảnh minh họa
Tính đến nay, các tỉnh trong vùng ĐBSCL đã đăng ký hơn 312.000ha, vượt hơn 112.000ha so với kế hoạch giai đoạn đến năm 2025; trong đó 60% diện tích đã liên kết với doanh nghiệp, giúp ổn định đầu vào và đầu ra. Riêng tỉnh An Giang đã đăng ký thực hiện 144.000ha đến năm 2025 và hướng đến mục tiêu 352.198ha vào năm 2030. Các mô hình điểm cho thấy năng suất tăng từ 5 - 10%, lợi nhuận tăng thêm từ 3 - 6 triệu đồng/ha/vụ, lượng phát thải khí nhà kính giảm đáng kể, có nơi lên tới 12 tấn CO2/ha/vụ. Thành công này đến từ việc áp dụng đồng bộ các kỹ thuật canh tác tiên tiến như gieo sạ thưa, tưới ngập - khô xen kẽ, dùng giống lúa cấp xác nhận, bón phân theo bảng so màu lá, sử dụng phân hữu cơ, xử lý rơm rạ và quản lý dịch hại tổng hợp (IPM).
Được tiếp sức bởi dòng vốn tín dụng kịp thời và ổn định ngành lúa gạo trên địa bàn được “bơm” vốn cho vay đến cuối tháng 7/2027 dư nợ ngành lúa gạo đạt 31.463 tỷ đồng, chiếm 13,77% tổng dư nợ tín dụng Khu vực 15. Từ dòng chảy vốn ngân hàng mối liên kết bền vững giữa “3 nhà” nhà nước, nhà nông và nhà doanh nghiệp, chính là “chìa khóa” để đảm bảo vùng nguyên liệu ổn định, giảm rủi ro thị trường và tăng khả năng thương lượng giá bán. Trước các biến động toàn cầu và xu thế “tiêu dùng xanh”, việc tiếp tục đẩy mạnh Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp không chỉ là giải pháp tình thế mà là chiến lược dài hạn. Đó là cách để ngành hàng lúa gạo Việt Nam thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu, cạnh tranh hiệu quả hơn trên thị trường quốc tế, đồng thời bảo vệ sinh kế cho hàng triệu nông dân vùng ĐBSCL.
Theo đó, Đề án không chỉ đảm bảo an ninh lương thực, thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn, mà còn thể hiện cam kết mạnh mẽ của Chính phủ trong chuyển đổi nông nghiệp theo hướng sinh thái, tuần hoàn và phát triển bền vững.
Hiệu quả - bền vững - thân thiện với môi trường, đó không còn là kỳ vọng mà đang từng bước trở thành hiện thực từ những mô hình sản xuất đầu tiên. Điều cần làm lúc này là tiếp tục hành động, tổ chức tốt và nhân rộng nhanh.
Bên cạnh đó, An Giang được thiên nhiên ưu đãi với cả ba loại hình môi trường nuôi thủy sản, gồm: nước ngọt, mặn và lợ, cùng bờ biển dài hơn 200km và ngư trường rộng trên 63.000km2, tạo điều kiện tốt phát triển ngành thủy sản, phục vụ chế biến xuất khẩu lẫn tiêu thụ ở thị trường trên 101 triệu dân của Việt Nam.
Riêng đối với ngành hàng xuất khẩu cá tra, An Giang có 18 doanh nghiệp với 23 nhà máy, công suất chế biến trên 350.000 tấn/năm. Các tổ chức tín dụng trên địa bàn khu vực đẩy mạnh cho vay lĩnh vực thủy sản trên địa bàn, với dư nợ ngành thủy sản đạt 78.693 tỷ đồng, chiếm 20,8% tổng dư nợ.
Bên cạnh đó, nguồn vốn tín dụng cũng mở rộng góp phần quan trọng giúp doanh nghiệp và nông dân đẩy nhanh quá trình sản xuất rau màu, điểm đáng chú ý là chuyển đổi số, kiểm soát quy trình sản xuất chặt chẽ, đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn nông dược quốc tế, đây là điều kiện tiên quyết để giữ vững thị trường xuất khẩu Dư nợ tín dụng lĩnh vực rau quả đạt 3.031 tỷ đồng, chiếm 0,8% tổng dư nợ tín dụng Khu vực 15.
Chia sẻ về nhiệm vụ từ nay đến cuối năm 2025, ThS. Trần Văn Phước, Quyền Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Khu vực 15 cho biết, Ngân hàng Nhà nước Khu vực 15 quyết liệt chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng trên cơ sở rà soát, đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ vay vốn, tài sản bảo đảm.... theo hướng dẫn của Hội sở chính, đi đôi với việc tuân thủ các quy định của pháp luật, không nới lỏng các điều kiện cấp tín dụng để đảm bảo an toàn hoạt động, hạn chế nợ xấu phát sinh. Chủ động triển khai, tăng cường hoạt động kết nối ngân hàng - doanh nghiệp bằng hình thức phù hợp nhằm tháo gỡ khó khăn vướng mắc của khách hàng, tạo môi trường thuận tiện tiếp cận vốn dễ dàng.