Mẹ trên 35 tuổi, bố trên 45 tuổi có nguy cơ sinh con bị khuyết tật
Theo khuyến cáo mới nhất từ Bộ Y tế, độ tuổi sinh đẻ của bố mẹ có thể một trong những nguyên nhân khiến trẻ bị khuyết tật bẩm sinh
Bộ Y tế vừa có quyết định về việc ban hành tài liệu "Hướng dẫn phát hiện sớm - can thiệp sớm khuyết tật trẻ em". Theo tài liệu hướng dẫn này, số liệu từ các cuộc điều tra y tế và gánh nặng bệnh tật toàn cầu cũng như báo cáo tình hình khuyết tật từ các nước đã đưa đến ước tính có khoảng 1 tỉ người trên thế giới (chiếm 15% dân số) bị khuyết tật.
Tại Việt Nam, Bộ Y tế dẫn số liệu báo cáo của Tổng cục Thống kê về điều tra quốc gia người khuyết tật, ước tính khoảng 1,2 triệu trẻ em gặp phải tình trạng này trong độ tuổi 0-17 (chiếm 3,1% trẻ trong độ tuổi này).
Nhân viên y tế tư vấn cho gia đình có con bị chậm nói. Ảnh: Vy Hiếu
Khoảng 55-65% trẻ bị khuyết tật là do bẩm sinh, trong khi tỉ lệ do bệnh tật chiếm 23,5-29,1%. Loại khuyết tật phổ biến nhất ở trẻ em trong điều tra tại cộng đồng là vận động chiếm 22,4% và nói chiếm 21,4% tổng số trẻ bị khuyết tật.
Báo cáo khám sàng lọc trẻ khuyết tật của một số tổ chức phi chính phủ hoạt động tại tỉnh Ninh Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Thừa Thiên - Huế cũng cho thấy tỉ lệ trẻ khó khăn về học chiếm 42,6%; nói 39,8%; nhìn 30%; vận động 27,3% và nghe 15,5%.
Bộ Y tế cũng chia nguyên nhân gây khuyết tật ở trẻ thành 3 nhóm: trước sinh, trong sinh và sau sinh.
Trong đó, nhóm nguyên nhân trước sinh gồm: Bệnh của mẹ khi mang thai (virus, bệnh giáp trạng, ngộ độc thai, tiểu đường, chấn thương...). Độ tuổi của cha mẹ cũng ảnh hưởng đến điều này. Trong đó, người mẹ có độ tuổi từ 35 trở lên, người bố trên 45 tuổi khi sinh con cũng có nguy cơ cao.
Ngoài ra, mẹ phơi nhiễm môi trường độc hại khi mang thai như các kim loại nặng, chất độc dùng trong nông nghiệp, thực phẩm, các loại thuốc, các chất kích thích như rượu, ma túy… Dinh dưỡng bà mẹ, nhiễm trùng, bất thường nhiễm sắc thể, gene, chất liệu di truyền thai nhi cũng được xếp vào nhóm nguyên nhân trước sinh.
Với nhóm nguyên nhân trong lúc sinh, việc can thiệp sản khoa (dùng kẹp/ hút lấy thai, mổ đẻ, kích thích đẻ...) được liệt kê đầu tiên. Trẻ đẻ non (dưới 37 tuần), thiếu oxy não (ngạt), cân nặng khi sinh thấp (<2.500g), trẻ bị vàng da nhân não do bất đồng nhóm máu… cũng được cho là các yếu tố nguy cơ khiến trẻ bị khuyết tật.
Sau sinh, trẻ bị chấn thương sọ não, chảy máu não, nhiễm trùng thần kinh, suy hô hấp, sốt cao co giật, phơi nhiễm các yếu tố môi trường độc hại như hóa chất, thuốc trừ sâu, kim loại nặng có nguy cơ bị khuyết tật.
Nếu được phát hiện sớm và can thiệp sớm, nhiều trẻ sẽ phục hồi tốt và trở thành trẻ bình thường, ví dụ trẻ bị bàn chân khoèo bẩm sinh hoặc trật khớp háng bẩm sinh, trẻ tự kỷ nhẹ có chỉ số IQ bình thường.
Một số trẻ khuyết tật khác có thể phát triển được các kỹ năng gần như trẻ bình thường, như chậm phát triển vận động, ngôn ngữ so với tuổi, bại não liệt nửa người hoặc hai chân mức độ nhẹ.
Một số bệnh nhi nặng cũng được phục hồi, cải thiện kỹ năng và có thể hội nhập xã hội. Ví dụ, trẻ bại não thể co cứng nặng sẽ không bị co rút biến dạng khớp, tuy không đi lại được nhưng ngồi xe lăn vẫn có thể đi học.