Giáo dục ưu tiên đào tạo các ngành đang 'khát' nhân lực chất lượng cao
Dự thảo Nghị quyết mới mở ra nhiều đột phá cho giáo dục đào tạo, nhưng đối với nguồn nhân lực cho kinh tế nông nghiệp vẫn còn nhiều trăn trở về chính sách.
Ưu tiên vượt trội cho ngành đang “khát” nhân lực chất lượng cao
Trong các cuộc thảo luận về đổi mới giáo dục đại học thời gian gần đây, nhiều cơ chế mang tính đột phá đã được đề xuất nhằm thực hiện Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Tuy vậy, đằng sau những bước tiến mạnh mẽ ấy, vẫn tồn tại một khoảng trống đáng lo ngại, đó là nhân lực cho lĩnh vực nông nghiệp - trụ đỡ của nền kinh tế đang thiếu hụt trầm trọng nhưng chưa được đặt đúng vị trí ưu tiên trong hệ thống chính sách mới.

Nhiều khoảng trống chính sách nhân lực nông nghiệp cần được ưu tiên lấp đầy. Ảnh minh hoạ
Tại phiên họp góp ý gần đây, GS.TS Nguyễn Thị Lan - đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam đánh giá cao cách tiếp cận đổi mới và tư duy đột phá trong thiết kế chính sách, đặc biệt là những cơ chế linh hoạt trong quản lý đội ngũ, tự chủ nhân sự và tăng đãi ngộ cho giáo viên.
Việc tiếp nhận chương trình tiên tiến theo thủ tục rút gọn hay miễn phí sách giáo khoa theo lộ trình cũng là bước đi nhân văn, tạo điều kiện tiếp cận giáo dục chất lượng hơn cho người học. Những cơ chế cho phép đại học góp vốn bằng tài sản trí tuệ, hình thành doanh nghiệp spin-off hay mở rộng hợp tác với doanh nghiệp được dự đoán sẽ tạo ra sức bật cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Thế nhưng, theo GS.TS Nguyễn Thị Lan, khi đối chiếu với thực tiễn đang diễn ra, có thể thấy một khoảng trống chính sách rất lớn liên quan tới các ngành trụ đỡ của nông nghiệp, vừa khó thu hút người trẻ nhưng lại đóng vai trò sống còn đối với an ninh lương thực và phát triển bền vững.
Sự thiếu hấp dẫn của các ngành này không chỉ đến từ bản thân tính chất nghề nghiệp nhiều vất vả, mức lương chưa cạnh tranh mà còn bởi việc thiếu một hệ thống chính sách đủ mạnh để tạo động lực cho người học. Trong khi đó, nhu cầu xã hội và doanh nghiệp lại đang tăng mạnh, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh và phát triển chuỗi giá trị bền vững.
Soi chiều kinh nghiệm từ các quốc gia có hệ thống nông nghiệp tiên tiến cho thấy nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Singapore, Israel, Úc hay Liên minh châu Âu đã áp dụng các giải pháp rất hiệu quả như học bổng mục tiêu, cam kết việc làm, đặt hàng đào tạo, phụ cấp nghề nghiệp, kết nối chặt với doanh nghiệp và tái định vị hình ảnh ngành nghề. Khi có chính sách đủ mạnh và dài hạn, các ngành ít hấp dẫn vẫn có thể thu hút đông đảo người học và đáp ứng tốt nhu cầu xã hội.
Những ngành thiết yếu nhưng đang bị “bỏ quên”
Việt Nam hiện có chính sách tín dụng chung cho người học và học bổng nghiên cứu sinh, nhưng điều đó vẫn chưa đủ. Tiếng nói của GS.TS Nguyễn Thị Lan phản ánh nỗi lo chung ngành nông nghiệp đang thiếu một cơ chế ưu tiên vượt trội trong chính sách nhân lực. Điều này có thể dẫn đến hệ lụy lâu dài, ảnh hưởng đến an ninh lương thực, khả năng cạnh tranh ngành nông nghiệp và quá trình chuyển đổi xanh của Việt Nam.
Một vấn đề cốt lõi khác được chỉ ra là sự thiếu vắng hệ thống dự báo nhu cầu nhân lực quốc gia theo ngành nghề. Khi không có dữ liệu chuẩn xác, quy mô đào tạo chủ yếu chạy theo tín hiệu thị trường tự phát. Ngành “hot” thu hút lượng lớn người học dù khả năng hấp thụ của thị trường lao động có hạn. Ngược lại, nhiều ngành thiết yếu nhưng thu nhập ban đầu thấp lại bị người học lảng tránh, khiến tình trạng thiếu hụt nhân lực kéo dài.
Kinh nghiệm từ châu Âu, Hàn Quốc hay Singapore cho thấy mô hình dự báo nhân lực quốc gia không chỉ giúp Nhà nước chủ động phân bổ nguồn lực giáo dục mà còn giúp các trường định hướng mở ngành, điều chỉnh chỉ tiêu phù hợp, tránh tình trạng “thừa - thiếu” cục bộ. Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi mô hình này. Việc xây dựng và công bố định kỳ dự báo nhân lực theo ngành sẽ giúp thị trường lao động vận hành hiệu quả hơn, đồng thời giảm rủi ro lãng phí nguồn lực đào tạo.
Từ góc độ phát triển bền vững, nhân lực nông nghiệp không chỉ phục vụ sản xuất mà còn liên quan tới quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với thiên tai và đảm bảo ổn định xã hội. Bởi vậy, việc “bù đắp” khoảng trống chính sách cho lĩnh vực này cần được xem là nhiệm vụ cấp bách, không thể chậm trễ thêm.
Do đó, GS.TS Nguyễn Thị Lan đề nghị bổ sung cơ chế dự báo nhu cầu nhân lực quốc gia theo ngành. Hiện, quy mô đào tạo còn dựa nhiều vào tín hiệu thị trường tự phát, dẫn đến lệch cung - cầu. Có những nhóm ngành thu hút số lượng lớn người học nhưng khả năng hấp thụ của thị trường lao động còn hạn chế, trong khi nhiều lĩnh vực thiết yếu phục vụ an ninh lương thực, quản lý tài nguyên, phòng chống thiên tai và phát triển nông nghiệp bền vững lại đang thiếu hụt nhân lực chất lượng cao.
Những đề xuất của GS.TS Nguyễn Thị Lan không chỉ là lời cảnh báo, mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết, cần xem nhân lực nông nghiệp là ưu tiên chiến lược, được hưởng cơ chế đặc thù tương xứng như các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, y tế đã được đề cập trong dự thảo. Khi khoảng trống chính sách được lấp đầy, những ngành vất vả nhưng quan trọng này sẽ có cơ hội thu hút người trẻ, qua đó củng cố trụ đỡ của nền kinh tế và tạo nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững.
Nông nghiệp không thể tiếp tục đứng ngoài cuộc trong hành trình đổi mới giáo dục. Chính sách nhân lực cho lĩnh vực này, nếu được ưu tiên đúng mức sẽ trở thành chìa khóa nâng tầm sức mạnh nội sinh của Việt Nam trong những năm tới.















