5 tháng đầu năm, lượng than nhập khẩu của Việt Nam đạt hơn 27 triệu tấn
5 tháng đầu năm 2024, nhập khẩu than các loại đạt hơn 27 triệu tấn, trị giá hơn 3,46 tỷ USD, tăng mạnh về lượng so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 5/2024, nhập khẩu than các loại của Việt Nam đạt gần 6,5 triệu tấn, tương đương 768 triệu USD, tăng 10,2% về lượng và tăng 2,2% về trị giá so với tháng trước đó.
Tính chung 5 tháng đầu năm, nhập khẩu than các loại đạt hơn 27 triệu tấn, trị giá hơn 3,46 tỷ USD, tăng mạnh 60% về lượng, tăng 29,2% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2023. Giá nhập khẩu bình quân 5 tháng đạt 128 USD/tấn, giảm hơn 19% so với cùng kỳ năm 2023.
Có nhu cầu tăng cao nhằm phục vụ cho sản xuất điện trong cao điểm mùa hè nắng nóng, Việt Nam đang tích cực nhập khẩu mặt hàng này từ nhiều thị trường như Indonesia, Lào, Úc,... Trong đó, Trung Quốc đang là thị trường nhập khẩu có mức tăng trưởng lớn nhất trong 4 tháng đầu năm.
Cụ thể, thông tin trên báo Công Lý, nhập khẩu than các loại từ Trung Quốc đạt 101.744 tấn với kim ngạch hơn 28,6 triệu USD, tăng 761% về lượng và tăng 618% về kim ngạch so với tháng 5/2023.
Lũy kế 5 tháng, nhập khẩu mặt hàng này từ đất nước tỷ dân đạt hơn 267,6 nghìn tấn với kim ngạch hơn 78,83 triệu USD, tăng 147% về lượng và tăng 146% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.
Giá nhập khẩu bình quân trong 5 tháng đạt 294,5 USD/tấn, giảm nhẹ 0,3% so với cùng kỳ năm 2023. Việt Nam nhập khẩu than từ Trung Quốc với giá cao nhất so với các thị trường khác.
Theo số liệu của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, việc sử dụng than đã tăng ồ ạt trong 5 tháng đầu năm 2024, với các nhà máy nhiệt điện than chiếm trung bình 59% sản lượng điện, có ngày vượt 70%.
Con số này tăng từ gần 45% trong cùng kỳ năm ngoái và 41% vào năm 2021, khi Việt Nam bắt đầu soạn thảo kế hoạch cắt giảm than và thuyết phục các nhà tài trợ quốc tế cam kết 15,5 tỷ USD để giúp loại bỏ nhiên liệu.
Theo báo Công Thương, một nhà máy nhiệt điện than mới đi vào hoạt động vào năm 2023, than đã chiếm 33% tổng công suất lắp đặt vào năm ngoái, tăng từ 30,8% vào năm 2020, khiến Việt Nam càng rời xa mục tiêu giảm xuống 20% đến năm 2030.
Theo EVN, nhu cầu điện dự báo có thể tiếp tục tăng cao. Dự báo sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống tháng 6 đạt 28,1 tỷ kWh, tăng 13,8% so với cùng kỳ. Công suất cực đại toàn hệ thống có thể lên tới hơn 52.000 MW, riêng miền Bắc có thể lên đến khoảng 26.000 MW. Như vậy, vấn đề sử dụng than trong sản xuất điện sẽ còn tăng cao.
BĐT Đảng Cộng sản Việt Nam thông tin, theo báo cáo mới đây, Việt Nam là một trong 5 nền kinh tế có mức tiêu thụ than đá cao nhất ở Đông Nam Á. Theo Tổng cục Thống kê, trữ lượng than đá tại Việt Nam có khoảng 50 tỷ tấn. Quảng Ninh là mỏ than quan trọng bậc nhất tại Việt Nam. Các mỏ than tại đây bắt đầu được đưa vào khai thác từ năm 1839. Trữ lượng lên tới 8,7 tỷ tấn cùng vị trí sát biển thuận tiện cho việc vận chuyển than đến thị trường quốc tế đã giúp cho Quảng Ninh trở thành khu vực khai thác than hàng đầu cả nước.
Bộ Công Thương cho biết dự kiến khả năng huy động than tăng trong giai đoạn từ nay đến năm 2030 đạt từ 43-47 triệu tấn than thương phẩm/năm. Sau đó, giảm dần vào giai đoạn 2035-2045. Theo dự báo, nhu cầu than sẽ ngày càng tăng cao đến năm 2035 từ 94-127 triệu tấn/năm, chủ yếu do sự gia tăng nhu cầu cho sản xuất điện và các ngành kinh tế như xi măng, luyện kim, hóa chất, sau đó sẽ giảm dần còn từ 73-76 triệu tấn vào năm 2045.
Trong khi đó, than thương phẩm sản xuất trong nước chỉ duy trì khoảng 45-47 triệu tấn/năm trong giai đoạn 2025-2035 và giảm dần còn 42-44 triệu tấn/năm vào 2045. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu than phục vụ sản xuất, dự kiến sẽ phải nhập khẩu khoảng 50-83 triệu tấn vào giai đoạn 2025-2035 và giảm dần còn khoảng 32-35 triệu tấn vào năm 2045.