Tín dụng tạo lực đẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Các tổ chức tín dụng trên địa bàn ngân hàng tỉnh An Giang (mới) tiếp tục giữ vai trò chủ lực trong dẫn vốn tín dụng tạo lực đẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Hoạt động ngân hàng trên địa bàn tỉnh An Giang (mới) sau khi được sắp xếp tổ chức vẫn ổn định, thông suốt, tăng trưởng hợp lý, an toàn, đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh.
Các tổ chức tín dụng trên địa bàn tập trung huy động vốn nhàn rỗi tại địa phương để có nguồn vốn thúc đẩy tăng trưởng tín dụng trên địa bàn an toàn, hiệu quả, đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, cung ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn phục vụ lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Đề án, Kế hoạch chương trình phát triển kinh tế, các mặt hàng chủ lực trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh; triển khai thực hiện tốt các chương trình, chính sách tín dụng, đẩy mạnh tín dụng chính sách xã hội; triển khai hiệu quả chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp trên địa bàn theo hướng đa dạng nội dung, hình thức phối hợp phù hợp điều kiện thực tế nhằm tăng khả năng tiếp cận tín dụng, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, cá nhân trên địa bàn.
Tín dụng tạo lực đẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước Khu vực 15 cho thấy, đến cuối tháng 7/2025, huy động vốn tại địa bàn tỉnh An Giang đạt 172.100 tỷ đồng, tăng 8,74% so cuối năm 2024, chiếm 67,4% tổng huy động Khu vực 15; dư nợ tín dụng đạt 267.400 tỷ đồng, tăng 2,6% so cuối năm 2024, chiếm 68,5% tổng dư nợ tín dụng Khu vực 15.
Tín dụng tiếp tục tập trung vốn phục vụ sản xuất kinh doanh tại địa bàn (chiếm 82,4% tổng dư nợ) và cơ cấu tín dụng tiếp tục chuyển dịch phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, cụ thể 3 lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, như: tín dụng khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 20,7% tổng dư nợ; tín dụng khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 11,8% tổng dư nợ; tín dụng khu vực thương mại và dịch vụ chiếm 67,5% tổng dư nợ.
Các nhu cầu vốn đối với các lĩnh vực ưu tiên, các chương trình, chính sách theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) được các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn tỉnh An Giang tập trung, giải quyết tốt và có mức tăng trưởng phù hợp với khả năng hấp thụ vốn của đối tượng thụ hưởng trên địa bàn; đảm bảo thực hiện đúng đối tượng và chính sách quy định, kết quả đạt được tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 151.790 tỷ đồng, tăng 40,05% so với cuối năm 2021, chiếm 56,9% tổng dư nợ toàn tỉnh.
Trong đó: dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 116/2018/NĐ-CP, Nghị định 156/2025/NĐ-CP) đạt 140.850 tỷ đồng, tăng 38,72%. Dư nợ cho vay phục vụ xây dựng nông thôn mới đạt 102.266 tỷ đồng, tăng 42,93%. Dư nợ cho vay phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp (nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch) đạt 280 tỷ đồng.
Tín dụng đối với lĩnh vực xuất khẩu đạt 11.069 tỷ đồng, tăng 23,32% so với cuối năm 2021, chiếm 4,2%. Tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 36.960 tỷ đồng, tăng 60,52% so với cuối năm 2021, chiếm 13,9%.
Bên cạnh đó, tín dụng đối với một số mặt hàng chủ lực của tỉnh An Giang tiếp tục được quan tâm, chú trọng đầu tư từ khâu trồng trọt, khai thác, nuôi trồng, thu mua, tiêu thụ, chế biến, bảo quản, cụ thể: Dư nợ ngành thủy sản đạt 37.965 tỷ đồng, tăng 65,06% so với cuối năm 2021. Trong đó: Dư nợ cho vay cá tra đạt 10.716 tỷ đồng; Dư nợ cho vay tôm đạt 4.963 tỷ đồng; Dư nợ ngành lúa, gạo đạt 28.232 tỷ đồng, tăng 24,95% so với cuối năm 2021; Dư nợ ngành rau quả đạt 2.783 tỷ đồng, tăng 43,33% so với cuối năm 2021.
Điểm đáng chú ý, tín dụng chính sách xã hội tiếp tục tăng trưởng và đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh của các đối tượng chính sách, góp phần thực hiện tốt chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới dư nợ cho vay đạt 12.906 tỷ đồng, tăng 65,75% so cuối năm 2021, chiếm 4,8% tổng dư nợ.
Tích cực triển khai các chương trình tháo gỡ khó khăn cho ngành, lĩnh vực: Chương trình cho vay hỗ trợ nhà ở, như: Cho vay nhà ở xã hội (NOXH) theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP doanh số lũy kế từ đầu chương trình đạt 1.158 tỷ đồng, dư nợ đạt 743 tỷ đồng. Cho vay NOXH, nhà ở công nhân, cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ theo Nghị quyết số 33/NQ-CP tỉnh An Giang có 6 dự án nhà ở xã hội đáp ứng đủ điều kiện. Các chi nhánh ngân hàng giải ngân 395 tỷ đồng với 181 tỷ đồng cho 1 chủ đầu tư, 214 tỷ đồng cho 234 người mua nhà.
Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản giải ngân đạt 14.906 tỷ đồng với 9.962 lượt khách hàng, dư nợ cho vay đạt 9.758 tỷ đồng. Chương trình cho vay liên kết, chế biến và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo chất lượng cao và phát thải thấp vùng ĐBSCL theo Quyết định 1490/QĐ-TTg, trên cơ sở danh sách các chủ thể tham gia Đề án, vùng chuyên canh chất lượng cao và phát thải thấp (tháng 2/2025) và các liên kết lúa gạo (tháng 5/2025) do Bộ Nông nghiệp và Môi trường công bố, các chi nhánh của ngân hàng Agribank và 6 NHTM đăng ký tham gia Chương trình trong giai đoạn thí điểm đến hết năm 2025 với quy mô vốn khoảng 16.300 tỷ chủ động tiếp cận khách hàng.
Kinh tế đang phục hồi nhưng vẫn còn nhiều thách thức nên cầu tín dụng khó có sự đột phá lớn. Sức hấp thụ vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân còn thấp, hoạt động sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn, “sức khỏe” tài chính bị giảm sút; đồng thời xu hướng thắt chặt, cắt giảm chi tiêu của người dân dẫn đến cầu tín dụng thấp.
Việc triển khai một số chương trình tín dụng còn gặp khó khăn như Chương trình cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo xây dựng lại chung cư theo Nghị quyết 33/NQ-CP của Chính phủ khó khăn do quy định thủ tục đầu tư, xây dựng, quy hoạch, đất đai, cấp phép còn nhiều vướng mắc; số lượng dự nhà ở xã hội được công bố còn ít; Chương trình cho vay liên kết, chế biến và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo chất lượng cao và phát thải thấp vùng ĐBSCL theo Quyết định 1490/QĐ-TTg chưa phát sinh kết quả cho vay
Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước Khu vực 15 xác định, từ nay đến cuối năm 2025 sẽ tiếp tục triển khai các giải pháp tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng. Cùng với đó, cân đối nguồn vốn đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế, các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
Các ngân hàng thương mại trên địa bàn cũng cam kết giữ mặt bằng lãi suất huy động, đa dạng hóa kênh huy động để có thêm các nguồn vốn có chi phí thấp, giảm lợi nhuận… qua đó giúp giảm lãi suất cho vay theo yêu cầu của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. Bên cạnh các cam kết giảm lãi suất, các ngân hàng thương mại cũng mong muốn, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, đảm bảo thanh khoản hệ thống dồi dào, cũng như nghiên cứu tăng mức cho vay điện tử giúp các ngân hàng tiết giảm chi phí… từ đó tạo điều kiện giúp các ngân hàng thương mại có thêm điều kiện để giảm mặt bằng lãi suất, hỗ trợ khách hàng.
Chú trọng đầu tư tín dụng vào các dự án, công trình trọng điểm khả thi phục vụ phát triển kinh tế của khu vực như: phát triển kinh tế biển, công nghiệp, logistics, phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, du lịch... và các mặt hàng nông sản chủ lực như: lúa gạo, thủy sản...