"Lòng tin quyết định sự phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp"
Tại Tọa đàm “Mục tiêu phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp - Niềm tin và Trách nhiệm” sáng 13/9, các chuyên gia cùng bàn về giải pháp hàn gắn những khoảng trống của thị trường TPDN cũng như hướng điều chỉnh về cơ chế chính sách để tháo gỡ khó khăn cho thị trường.
Tại Tọa đàm “Mục tiêu phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp - Niềm tin và Trách nhiệm” sáng 13/9, các chuyên gia cùng bàn về giải pháp hàn gắn những khoảng trống của thị trường TPDN cũng như hướng điều chỉnh về cơ chế chính sách để tháo gỡ khó khăn cho thị trường.
Báo cáo mới nhất của Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA) cho thấy, thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) vừa nối dài thêm một tháng trầm lắng ở hoạt động phát hành mới.
Cụ thể, trong tháng 8/2022, có 26 đợt phát hành TPDN riêng lẻ với giá trị 13.930 tỷ đồng và 1 đợt phát hành trái phiếu ra công chúng trị giá 300 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong đó chủ yếu là trái phiếu của các ngân hàng thương mại; các lĩnh vực khác tiếp tục khá hạn chế, chỉ có 2 đợt phát hành từ CTCP Fuji Nutri Food và CTCP Đầu tư và kinh doanh nhà Khang Điền với tổng 1.800 tỷ đồng.
Đã bốn tháng qua hoạt động phát hành TPDN mới rơi vào khoảng trống đột ngột. Từ sự bùng nổ và liên tục gia tăng trong các năm 2020 và 2021, hoạt động phát hành mới ở các lĩnh vực ngoài ngân hàng rơi vào trầm lắng suốt từ tháng 4/2022 đến nay. Những rủi ro đầu tư và rủi ro pháp lý bộc lộ ở một số trường hợp sau giai đoạn phát triển nóng, cùng hướng siết chặt lại cơ chế pháp lý (đặc biệt ở việc sửa đổi Nghị định 153 về phát hành TPDN) được cho là nguyên do.
Song, trên thị trường tiền tệ, bối cảnh ngột ngạt của room tăng trưởng tín dụng kéo dài, lãi suất tăng lên và thậm chí có những thời điểm căng thẳng thanh khoản hệ thống ngân hàng…, cũng khiến hoạt động phát hành TPDN thêm bất lợi.
Chính trong bối cảnh ngột ngạt room tín dụng, dòng vốn đầu tư công không phát huy được vai trò và giá trị dẫn kết, nhu cầu vốn của cộng đồng doanh nghiệp tăng cao, thì cầu nối thị trường TPDN lại phát sinh khoảng trống đột ngột kéo dài.
Trong khi đó, Chính phủ liên tiếp có các định hướng, đề án đặt mục tiêu phát triển mạnh thị trường vốn, trong đó có trọng tâm thị trường TPDN với mục tiêu đạt 20% GDP đến năm 2025.
Mục tiêu đó có khả thi? Giải pháp nào hàn gắn thị trường TPDN với khoảng trống hiện nay? Cơ chế chính sách điều chỉnh hướng nào? Niềm tin trên thị trường sau những rủi ro phát sinh? Trách nhiệm của các chủ thể tham gia thị trường này cần nhìn nhận thế nào?
Hướng đến những nội dung trên, sáng ngày 13/9, Nhịp sống Doanh nghiệp, BizLIVE sẽ tổ chức buổi Tọa đàm "Mục tiêu phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp - Niềm tin và Trách nhiệm" (tại Khách sạn Hòa Bình - 27 Lý Thường Kiệt, Hà Nội).
Các diễn giả tham dự tọa đàm:
- TS. Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội
- TS. Võ Trí Thành - Chuyên gia kinh tế, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia
- TS. Trương Văn Phước - Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia, nguyên Quyền Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia
- TS. Lê Xuân Nghĩa - Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia
- TS. Nguyễn Tú Anh - Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương
- Ông Don Lambert - Trưởng ban Phát triển Khu vực Kinh tế tư nhân, Ngân hàng Phát triển châu Á tại Việt Nam
- TS. Trịnh Quang Anh - Chủ tịch Hội Nghiên cứu thị trường liên ngân hàng Việt Nam
- TS. Vũ Đình Ánh - Chuyên gia kinh tế
- Luật sư Nguyễn Thanh Hà - Chủ tịch Công ty Luật TNHH SB Law
- Ông Đặng Trần Phục - Chủ tịch Hội đồng Quản trị AzFin
Tham dự tọa đàm có đại diện khối đầu tư, kinh doanh giấy tờ có giá, khối nghiên cứu thị trường liên ngân hàng, khối phân tích, khối truyền thông của các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán và các nhà đầu tư cá nhân.
Cần tháo gỡ thị trường vốn được khơi thông
Phát biểu khai mạc toạ đàm, TS. Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho biết, chúng ta đang trong quá trình phục hồi và phát triển nền kinh tế, kết quả 8 tháng đã có nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên trong bức tranh có nhiều điểm sáng cũng có một số điểm còn băn khoăn.
Theo đó, mặc dù doanh nghiệp đang trong quá trình phục hồi nhưng sự hồi phục còn gian nan, ngoài vấn đề khó khăn hậu đại dịch, vấn đề vốn rất cần quan tâm, doanh nghiệp đang rất cần tiếp sức nguồn vốn nhưng hiện các van của nguồn vốn đang gặp nhiều ách tắc.
"Nếu không khơi thông được dòng chảy nguồn vốn thì kết quả phục hồi rất khó được như kỳ vọng", ông Lộc nói.
Thời gian qua, Chính phủ đã có nhiều chính sách để giúp nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng phục hồi, trong đó có các chính sách về tài khóa. Bên cạnh giãn, hoãn thuế Chính phủ cũng đang thúc đẩy mạnh đầu tư công nhưng đầu tư công cũng đang gặp nhiều vấn đề, mặc dù Chính phủ và các bộ ngành rất quyết liệt chỉ đạo nhưng vẫn còn các vướng mắc và khó đạt mục tiêu cả năm. Tóm lại chính sách tài khóa và đầu tư công đều đang gặp khó khăn.
TS. Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội
Vừa rồi Ngân hàng Nhà nước đã nới room cho các ngân hàng nhưng chúng ta đang đứng trước sức ép của lạm phát nên du di cho nới room sẽ không nhiều. Chính vì vậy nguồn cung ứng tín dụng vào nền kinh tế cũng đang hạn chế so với nhu cầu về nguồn vốn để phục hồi và phát triển nên thị trường đang kỳ vọng vào các van tín dụng khác cho nền kinh tế qua kênh chứng khoán, trái phiếu…
"Có thể thấy ở các nước kênh vốn chủ yếu đến từ thị trường vốn nhưng Việt Nam vẫn chủ yếu đến từ tín dụng. Thị trường vốn Việt Nam có phát triển khá mạnh trong 5 năm gần đây nhưng vẫn còn non trẻ. Nguồn vốn huy động qua chứng khoán và trái phiếu mới chiếm 26%, tức là cứ 4 đồng vốn huy động thì chỉ có 1 đồng từ thị trường vốn, còn lại chủ yếu qua kênh tín dụng. Đây là vấn đề cần tháo gỡ của Việt Nam. Cần phải làm sao để nguồn vốn của người dân trực tiếp tham gia vào quá trình huy động vốn chứ không phải qua kênh tiết kiệm ngân hàng", ông Lộc nói.
Nhiều doanh nghiệp cũng đang đa dạng hóa các nguồn vốn trong đó có qua kênh chứng khoán và trái phiếu. Thực tế đã có những ví dụ thành công nhưng việc huy động vốn qua các kênh này vẫn gặp khó khăn.
Việc phát triển thị trường vốn để tạo thêm kênh huy động vốn cho doanh nghiệp rất quan trọng, nhưng quá trình học hỏi kinh nghiệm thế giới còn hạn chế. Một trong những khoảng cách của Việt Nam so với thế giới là thị trường vốn cho nên cần học tập kinh nghiệm của thế giới nhiều hơn để phát triển thị trường và giúp doanh nghiệp huy động được nguồn vốn nhiều hơn từ thị trường vốn.
Về ngắn hạn thời gian tới đến hạn thanh toán trái phiếu của các doanh nghiệp, như vậy các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường nhất là doanh nghiệp bất động sản đang gặp khó khăn rất lớn nên cần tháo gỡ ngay những khó khăn nếu không sẽ có những đổ vỡ.
Những động thái của các cơ quan chức năng thời gian qua giúp thị trường thanh lọc song cũng cần có những tháo gỡ để thị trường vốn được khơi thông.
Rủi ro luôn đi kèm phát triển thị trường tài chính bền vững
TS. Võ Trí Thành, Chuyên gia kinh tế, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia cho biết, câu chuyện trái phiếu là dài hạn, phát triển thị trường tài chính nói chung đặc biệt thị trường vốn, không chỉ Việt Nam mà nhiều nước châu Á có lịch sử dựa nhiều vào hệ thống NHTM, khác với các thị trường Mỹ, Anh có nhiều thị trường vốn hơn. Câu chuyện phát triển thị trường trái phiếu đã được bàn từ năm 2000, cũng đã xây dựng chiến lược phát triển, đó là câu chuyện lớn, dài.
Vấn đề thứ hai, trong thời điểm hiện tại trong giai đoạn phục hồi, kênh huy động vốn vốn quan trọng bên cạnh tín dụng, cổ phiếu IPO, một số hình thức đầu tư như FDI, quỹ thì trái phiếu thực sự là kênh quan trọng với doanh nghiệp không chỉ trong bất động sản.
Thứ ba có điểm trớ trêu trong phát triển thị trường trái phiếu cũng như vốn nói chung, bên cạnh ý nghĩa nhu cầu thì kèm rủi ro.
TS. Võ Trí Thành, Chuyên gia kinh tế, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia
Ông Thành đặt vấn đề, không có thị trường tài chính nói chung huy động vốn thì đất nước khó phát triển bền vững, nhưng phát triển nó như thế nào cho bền vững. Ông Thành dẫn dự báo của một người bạn tại Nhật Bản giỏi về tài chính dự báo rằng kinh tế thế giới chắc chắn đối mặt với khủng hoảng do tất cả tài chính sinh ra gắn với bảo hiểm nhưng bảo hiểm gây ra khủng hoảng còn lớn hơn.
"Có 2 thứ không học thuộc bài là mỹ nhân kế, 2 là bong bóng bất động sản, tài chính. Lòng tham kinh lắm. Rủi ro luôn đi kèm phát triển thị trường tài chính bền vững", ông Thành nói.
TS. Võ Trí Thành đặt câu hỏi với TS. Trương Văn Phước nhìn nhận, đánh giá như thế nào về thị trường trái phiếu Việt Nam. Trả lời câu hỏi này, ông Phước cho biết, trong xã hội đã có phân công nhiệm vụ, khi dòng vốn ngắn hạn thì giao cho ngành ngân hàng, còn về vốn dài hạn thì phải dựa vào thị trường trái phiếu.
"Dân gian có câu, "Con dại cái mang" - con hư là do cha mẹ. Thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Vậy ở Việt Nam đã có cơ quan nào quản lý, chịu trách nhiệm chính cho thị trường vốn hay chưa? Những gì vừa xảy ra trên thị trường vốn là một hồi chuông cảnh báo, bởi chúng ta không có một thể chế chịu trách nhiệm cuối cùng.
Tôi cho rằng, muốn phát triển một thị trường vốn lành mạnh, tiên tiến thì chúng ta cần có một định chế độc lập, cần một cơ quan có chức năng tổ chức, thanh tra, giám sát và chịu trách nhiệm cho sự vận động của thị trường tài chính nói chung và thị trường vốn nói riêng.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải có các định chế xếp hạng sức khỏe của doanh nghiệp, nhà đầu tư từ đó quyết định và chịu trách nhiệm về các quyết định của mình", ông Phước nói.
Ông Phước cũng thông tin thêm rằng, chiều qua (12/9), ông cùng một số chuyên gia đã có cuộc làm việc với Thủ tướng Chính phủ, hiện Nghị định 153 đã trên bàn Thủ tướng.
Bình luận về những ý kiến được ông Trương Văn Phước nêu ra, ông Võ Trí Thành cho biết thời gian qua đúng là có nhiều điều chúng ta chưa hài lòng về thị trường trái phiếu, trong đó có vấn đề về bộ máy giám sát, điều tiết thị trường. Tuy nhiên, thị trường trái phiếu của Việt Nam không cần phải xóa đi lập lại.
Thị trường trái phiếu của Việt Nam hình thành từ những năm 90, đến nay cũng khá đa dạng, vấn đề ở đây là cơ quan nào chịu trách nhiệm chính. Theo đó, cần phải xác định được rõ nên giám sát thị trường tài chính là thị trường hợp nhất hay chuyên biệt. Từ khi thành lập Ủy ban giám sát đã quản lý gắn với kinh tế vĩ mô, điều tiết các vấn đề tài chính bên cạnh đó là giám sát các định chế tài chính. Cho nên trong bối cảnh mới chúng ta có thể xem xét lại vai trò và trách nhiệm của ủy ban giám sát chứ không cần thiết phải lập lại thị trường.
Lòng tin quyết định sự phát triển thị trường TPDN
TS. Lê Xuân Nghĩa - Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia cho biết, ông thống kê tổng dư nợ TPDN vào khoảng 1,5 triệu tỷ, tổng số vốn trung dài hạn hệ thống ngân hàng 5 triệu tỷ, bằng khoảng 1/3. Những năm qua, vốn trái phiếu tăng trưởng với khoảng 30-35%/năm. Nếu tính toán công thức có nghĩa 2 năm sau khối lượng trái phiếu tăng lên gấp đôi, lên khoảng 2,8 triệu tỷ, 2 năm kế tiếp lên 5,6 triệu tỷ, 6 năm sau lên 11,2 triệu tỷ. 11,2 triệu tỷ gánh được gần như vốn trung dài hạn mà hệ thống ngân hàng tìm vốn ngắn cho vay trung dài hạn.
Ông Nghĩa cho biết, đây là điều chúng ta kỳ vọng trong tương lai, trong khi hiện tại có quan điểm coi trái phiếu như trò chơi đánh bạc của các nhà phát hành, có trường hợp sai phạm, nhà đầu tư phải ráng chịu. Trái phiếu là thị trường vô cùng quan trọng nhưng đang không được phát triển với tâm thế xem nó là "máu" của nền kinh tế thị trường.
Cũng theo ông Nghĩa, bộ phận phát triển thị trường trái phiếu là bộ phận hẹp trong Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là điều rất đáng trách. Thị trường trái phiếu là một thị trường có độ rủi ro tương đối cao, vì thế cần có hệ thống giám sát vi phạm chuẩn để nhà đầu tư nhìn vào sức khỏe doanh nghiệp, nhà đầu tư theo đó chỉ biết nhìn vào, quyết định chọn theo khẩu vị rủi ro.
"Hiện tại tôi cho rằng chưa có đủ định chế thật sự để quản lý giám sát phát triển thị trường này. Vì vậy cách làm như vậy có vấn đề, khi sai phạm hình sự hóa. Cứ mỗi lần như vậy thị trường bị rủi ro nhiều trong khi thị trường này là niềm tin", ông Nghĩa nói.
Cũng theo ông Nghĩa, niềm tin và trách nhiệm là 2 từ gắn với nhau. Trách nhiệm trước hết là của Chính phủ, lòng tin trước hết là của doanh nhân, doanh nghiệp. Do thể chế không vững chắc, giám sát không chặt chẽ, rủi ro, ứng xử với thị trường lên bờ xuống ruộng. Thị trường như vậy khó phát triển bền vững lâu dài, khó giữ niềm tin của dân chúng vững chắc.
"Chúng ta buộc phải làm lại. Hôm qua tôi họp với Thủ tướng, Thủ tướng đề cập tử huyệt kinh tế vĩ mô nếu thị trường này đổ bể, vỡ nợ, với tổng đáo hạn cuối năm là 84.000 tỷ, cả năm sau 140.000 tỷ", ông Nghĩa nói.
Dẫn chứng về trường hợp của Hải Nam (Trung Quốc), khi trái phiếu đổ bể, thị trường bất động sản đổ bể, dân chúng nợ tiền ngân hàng biểu tình không trả, người gửi tiền đòi rút ra. Ngay lập tức Chính phủ tuyên bố sẽ cho phép xây dựng hoàn thành nhà, thể hiện trách nhiệm ghê gớm và đặt vấn đề rằng "Chúng ta dám làm vậy không?".
"Trách nhiệm lớn lao nhất là Chính phủ, niềm tin là doanh nghiệp, nhân dân, là trụ cột thị trường này. Chính phủ không nên nói không, chỉ trên nền tảng trách nhiệm của Chính phủ thì mới tạo lòng tin. Lòng tin quyết định phát triển thị trường", ông Nghĩa khẳng định lại.
Trách nhiệm thuộc về cơ quan nhà nước cần xây dựng hệ thống pháp luật, xây dựng niềm tin cho nhà đầu tư
TS. Võ Trí Thành dẫn số liệu vừa được ông Lê Xuân Nghĩa đưa ra cho biết, trong khoản 1,5 triệu tỷ trái phiếu phát hành, nhà phát hành lớn nhất là các NHTM, họ phát hành để tăng vốn cấp hai, thứ hai là các doanh nghiệp BĐS và thứ ba là các tập đoàn phát triển năng lượng.
Bên cạnh đó, như ông Nghĩa cũng đã khẳng định, giá trị trái phiếu đáo hạn trong thời gian tới cũng rất lớn, khoảng vài trăm nghìn tỷ, theo đó, thanh khoản cho thị trường cũng rất quan trọng. Đằng sau sự phát triển cũng như rủi ro của thị trường trái phiếu doanh nghiệp có vấn đề trách nhiệm về quản lý, điều tiết, giám sát và cách xử lý thích hợp khi vấn đề xảy ra. Với tình trạng này, ông Thành đặt câu hỏi TS. Nguyễn Tú Anh, nhìn nhận, đánh giá thế nào đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam hiện nay?
TS. Nguyễn Tú Anh, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương cho biết, tại Việt Nam, thị trường trái phiếu doanh nghiệp là một mảnh ghép phát triển hơi chậm so với các thị trường vốn khác. Tuy nhiên, một điều đánh mừng là chúng ta có thể nhìn thấy những con số tăng trưởng như ông Nghĩa đã đề cập.
Trong giai đoạn 2017-2021 quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp tăng 24%, và đến 2021 là 56%. Điều này cho thấy nhu cầu thị trường là vô cùng lớn, thể hiện nhu cầu lớn của cả người phát hành và người mua đều rất lớn.
"Tuy nhiên, cái gì mới ra mà lớn nhanh quá thì lại phải thận trọng, giống như khi mới tập đi mà đã đi quá nhanh thì hay bị ngã, đôi khi ngã rất đau. Chúng ta cũng thấy vừa rồi xảy ra một số vụ việc, tuy nhiên, cách xử lý không gây ra sự xáo động quá lớn với thị trường. Lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành chỉ chậm lại trong tháng 4, tháng 5 và tới tháng 6 thì lượng phát hành đã tăng trở lại. Tôi rất ấn tượng với câu nói của Thủ tướng trong cuộc họp mới đây, Thủ tướng nói rủi ro và khủng hoảng là cái đương nhiên của thị trường. Điều này có nghĩa bất kỳ thị trường nào cũng có rủi ro", ông Tú Anh nói.
Điều quan trọng theo ông Tú Anh là khi chúng ta tham gia thị trường đều có niềm tin, luật chơi ở đây là nếu người ta làm sai thì phái trả giá, bất kỳ thị trường nào cũng đều phải xây dựng hệ thống niềm tin. Thông thường, chúng ta có 2 cách tiếp cận về niềm tin. Cách cổ điển là chúng ta xây dựng luật chặt chẽ, kiểm soát thật chặt để lọc bớt rủi ro. Cách làm như thế đúng là ít rủi ro nhưng lại tiêu diệt thuộc tính đương nhiên của thị trường là có rủi ro.
Do đó chúng ta có cách tiếp cận mới là phải xây dựng niềm tin, xây dựng các công cụ xử lý rủi ro. Do mỗi nhà đầu tư có khẩu vị khác nhau về rủi ro nên có những nhu cầu khác nhau, nên chúng ta cần có các công cụ khác nhau.
Nhiều người nói phải xây dựng các cơ quan xếp hạng tín nhiệm để lấy niềm tin, vậy niềm tin đơn vị xếp hạng lấy ở đâu ra? Do đó, công cụ phát triển niềm tin tốt hơn là xây dựng bảo hiểm rủi ro, theo đó, chúng ta xây dựng những định chế đảm bảo, rằng rủi ro ít thì trả họ trả phí ít, rủi ro nhiều thì trả phí nhiều… thị trường khi đó sẽ tự vận hành một cách mượt mà hơn, bền vững hơn. Theo đó, trách nhiệm thuộc về cơ quan nhà nước cần xây dựng hệ thống pháp luật, xây dựng niềm tin cho nhà đầu tư.
Chỉ quản lý rủi ro vĩ mô, những vấn đề phát sinh trong quá trình phát triển của thị trường hãy để nó diễn ra đúng quy luật
Đặt câu hỏi cho TS. Trịnh Quang Anh - Chủ tịch Hội Nghiên cứu thị trường liên ngân hàng Việt Nam, TS.Võ Trí Thành cho biết, thị trường tài chính nào cũng không thể tách rời hệ thống ngân hàng, ông nhận định như thế nào về thực trạng mối quan hệ của các ngân hàng với các bên phát hành trái phiếu?
Trả lời câu hỏi, TS. Trịnh Quang Anh cho biết, xét về khía cạnh vĩ mô, quy mô thị trường vốn Việt Nam khoảng 11,5 triệu tỷ đồng chia cho GDP 8 triệu tỷ, được khoảng 144%, trong đó thị trường trái phiếu khoảng 40% GDP. Tín dụng năm nay khoảng 14% và hầu hết các ngân hàng đều đang cạn room, sẽ tạo cơ hội cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp bởi doanh nghiệp không vay được vốn ngân hàng sẽ quay qua phát hành trái phiếu để huy động vốn. Một số ngân hàng cũng giới thiệu cho các nhà đầu mua trái phiếu của các doanh nghiệp phát hành qua các ngân hàng.
Một khía cạnh nữa là vấn đề xếp hạng tín nhiệm, đằng sau đó lại phải có những bảo hiểm rủi ro. Có những doanh nghiệp mới nhưng rất muốn phát hành, trong khi chưa có những đơn vị xếp hạng tín nhiệm đủ tầm, dẫn đến rủi ro cho nhà đầu tư.
"Ai xếp hạng tín nhiệm và khi các doanh nghiệp muốn xếp hạng tín nhiệm có tìm đến các đơn vị xếp hạng tín nhiệm này không?", TS. Trịnh Quang Anh băn khoăn.
Bên cạnh đó, ông cho rằng, cơ quan quản lý thường nói phải công khai minh bạch nhưng hiện có những cách làm rất không rõ ràng. "Chúng ta đặt kỳ vọng thị trường trái phiếu lớn nhanh nhưng bền vững song thực tế trong quá trình phát triển phải có quá trình sàng lọc, đào thải mới có sự phát triển. Nên có những chuyện nọ chuyện kia cũng là điều cần thiết để thanh lọc thị trường", TS. Trịnh Quang Anh nói.
Theo ông chỉ có những vấn đề rủi ro vĩ mô là cần phải quản lý còn những vấn đề phát sinh trong quá trình phát triển của thị trường hãy để nó diễn ra đúng quy luật.
Nghị định 153 cần cơ chế đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư khi doanh nghiệp không thể trả lại tiền
Dưới góc độ luật sư, ông Nguyễn Thanh Hà - Chủ tịch Công ty Luật TNHH SB Law cho biết, thời gian qua xảy ra một số vụ việc liên quan trái phiếu, ông được một số nhà đầu tư cá nhân mời đại diện làm việc với nhà phát hành trái phiếu.
Trong quá trình làm việc, đứng khía cạnh nhà đầu tư đặc biệt nhà đầu tư cá nhân thật ra họ không hiểu nhiều về các vấn đề vĩ mô, bản chất trái phiếu, họ quan niệm mua trái phiếu như gửi tiết kiệm. Thứ hai là lãi suất trái phiếu cao hơn ngân hàng thì họ nhảy vào, không quan tâm tài sản đảm bảo là gì, hay các vấn đề liên quan ra sao.
Khi xảy ra một số vụ việc với sự tham gia của các cơ quan tư pháp, hiện nay nhiều lãnh đạo công ty phát hành vướng lao lý. Chúng ta chưa có kinh nghiệm trong xử lý việc này.
Khi đại diện nhà đầu tư làm việc, họ chỉ có mong muốn lấy lại tiền khi mua trái phiếu, đặc biệt trái phiếu đến hạn mong muốn lãnh đạo doanh nghiệp vướng lao lý, Cơ quan Điều tra có cho tại ngoại để xử lý các vấn đề. Tuy nhiên trong cơ chế nền tư pháp Việt Nam thì khó cho tại ngoại để xử lý. Giai đoạn tới phải xem xét cách xử lý, ứng xử của các đơn vị nếu lãnh đạo doanh nghiệp vướng lao lý.
Thứ 2 đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư, đặc biệt nhà đầu tư cá nhân. Hiện nhà đầu tư cá nhân lo lắng không lấy lại được tiền. Một số chủ doanh nghiệp mong muốn bán các dự án để xử lý, trả lại tiền cho nhà đầu tư. Nhưng cơ chế xử lý hiện nay không được, tiền vào kho bạc, vào cơ quan điều tra phải đợi các phiên tòa, bản án của tòa.
"Tôi nghĩ vấn đề ở đây khía cạnh tư pháp trong thời gian tới Chính phủ cần nghiên cứu xử lý những trường hợp doanh nghiệp sắp tới đáo hạn không trả được tiền cho nhà đầu tư, cần có cơ chế xử lý, đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư. Trong Nghị định 153 cần có cơ chế đảm bảo việc đó, khi mà niềm tin nhà đầu tư đi xuống sau những vụ việc vừa qua", ông Hà đề xuất.