Cần cơ chế đặc biệt để tháo gỡ điểm nghẽn pháp luật
Sáng 23/6, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, các đại biểu Quốc hội đề xuất cơ chế đặc biệt để tháo gỡ vướng mắc điểm nghẽn pháp luật.
Theo đó, các đại biểu Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật. Đây được coi là giải pháp cần thiết nhằm tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Tháo gỡ những điểm nghẽn pháp luật
Phát biểu tại phiên thảo luận, đại biểu Lê Xuân Thân - đoàn Khánh Hòa nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cho phép chính quyền địa phương được ban hành các cơ chế xử lý vướng mắc phát sinh từ thực tiễn, đặc biệt khi nhiều chồng chéo, mâu thuẫn pháp lý không chỉ xuất phát từ Trung ương mà còn từ cấp tỉnh, thành phố.
Đại biểu Lê Xuân Thân - đoàn Khánh Hòa. Ảnh: VPQH
Ông đề nghị bổ sung cơ chế để HĐND và UBND cấp tỉnh có thể chủ động kiến nghị hoặc ban hành quyết định xử lý các vướng mắc tại địa phương.
Đại biểu Nguyễn Thị Thủy- đoàn Bắc Kạn nêu bật tính cấp thiết của nghị quyết trong bối cảnh Việt Nam đang đặt mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045, một hành trình đầy áp lực mà “không thể để lỡ cơ hội chỉ vì những điểm nghẽn pháp luật”.
“Chúng ta chỉ còn 6 tháng nữa để thực hiện mục tiêu tháo gỡ căn bản các điểm nghẽn pháp luật theo yêu cầu của Bộ Chính trị trong năm 2025”, bà Thủy nhấn mạnh và đề nghị nghị quyết cần có hiệu lực ngay sau khi được thông qua.
Về phạm vi áp dụng, bà Thủy đồng tình với ý kiến cho rằng nghị quyết không nên được áp dụng đối với các lĩnh vực liên quan đến quyền con người, hình sự, tư pháp... bởi đây là “những vấn đề liên quan đến sinh mệnh chính trị của con người”.
Đại biểu Nguyễn Thị Thủy - đoàn Bắc Kạn. Ảnh: VPQH
Đặc biệt, bà đề nghị làm rõ 2 khái niệm miễn trách nhiệm và loại trừ trách nhiệm, đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết để tránh áp dụng tùy tiện.
Bà cũng kiến nghị nghị quyết cần có hiệu lực ngay sau khi được Quốc hội thông qua, đồng thời giới hạn rõ phạm vi áp dụng, tránh điều chỉnh các lĩnh vực nhạy cảm như quyền con người, hình sự, tố tụng. Đối với quy định về miễn trách nhiệm, đại biểu đề nghị làm rõ tiêu chí và giao Chính phủ hướng dẫn cụ thể để đảm bảo thống nhất khi triển khai.
Ở góc nhìn khác, đại biểu Hà Sỹ Đồng - đoàn Quảng Trị bày tỏ đồng tình cao với việc ban hành nghị quyết. Ông cho rằng đây là bước đi hợp lý, kịp thời, đúng thẩm quyền theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Việc chậm xử lý các vướng mắc, theo ông, đã gây cản trở lớn cho đầu tư công, sản xuất kinh doanh, chuyển đổi số và cải cách hành chính.
“Cần quy định rõ thời hạn áp dụng nghị quyết, tránh kéo dài không cần thiết. Đồng thời đề xuất danh mục luật cần sửa đổi để Quốc hội giám sát và Chính phủ có kế hoạch thực hiện cụ thể”, đại biểu đề nghị.
Đại biểu cũng kiến nghị Quốc hội xem xét thể chế hóa cơ chế sandbox lập pháp - tức là cho phép áp dụng linh hoạt cơ chế đặc biệt trong phạm vi kiểm soát, có giám sát, đánh giá định kỳ. Đây cũng là một định hướng đã được đề cập trong Nghị quyết 66 của Bộ Chính trị.
Trong khi đó, đại biểu Nguyễn Anh Trí - đoàn Hà Nội nhấn mạnh vai trò của chuyên gia trong quá trình xây dựng luật. Ông cho rằng cần mời các chuyên gia giỏi, có kinh nghiệm thực tiễn để trực tiếp tham gia soạn thảo, góp phần nâng cao chất lượng và tính khả thi của các văn bản pháp luật ngay khi ban hành để không phải sửa đi sửa lại, mất thời gian mà hiệu quả không cao.
Đề xuất nghị quyết có hiệu lực ngay sau khi thông qua
Tiếp thu ý kiến, giải trình những kiến nghị của đại biểu Quốc hội nêu, Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, đầu tiên việc đổi tên nghị quyết để phản ánh đúng bản chất là một cơ chế pháp lý tạm thời, linh hoạt.
"Như đại biểu Thạch Phước Bình - đoàn Trà Vinh đề xuất, tên gọi nên là “Nghị quyết về cơ chế tạm thời xử lý vướng mắc trong quy định pháp luật” để làm rõ phạm vi áp dụng và tránh nhầm lẫn với các cơ chế lâu dài.
Thứ hai, nhiều đại biểu đề nghị bổ sung nguyên tắc tính hợp hiến, thống nhất pháp luật, như đại biểu Nguyễn Thị Thủy- đoàn Bắc Kạn và đại biểu Nguyễn Thị Sửu- đoàn Thừa Thiên Huế.
Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh đã ghi nhận và cho biết: “Chúng tôi xin tiếp thu, bản tiếp thu đã nêu rất rõ”. Đồng thời, Bộ trưởng cũng thống nhất với nguyên tắc công khai, minh bạch như đại biểu Hà Sỹ Đồng - đoàn Quảng Trị nêu.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh. Ảnh: VPQH
Thứ ba, về cơ chế miễn trách nhiệm, Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, ông đồng tình với quan điểm cần quy định rõ ràng, chặt chẽ, tránh bị lợi dụng.
“Việc này đại biểu Nguyễn Thị Thủy đã đề xuất giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết nội dung này. Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp, “hiện chưa có văn bản nào giao Chính phủ quy định chi tiết về miễn trách nhiệm”, do đó cần cân nhắc mức độ cụ thể trong nghị quyết”, Bộ trưởng cho hay.
Thứ tư, về tổ chức thực hiện, Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh khẳng định sẽ có kế hoạch chi tiết để triển khai ngay sau khi nghị quyết được ban hành. Trong đó yêu cầu tất cả các bộ, ngành, địa phương tiến hành rà soát và báo cáo trước ngày 30/7/2025.
Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho rằng, thời gian để hoàn thành các mục tiêu của Nghị quyết 66 chỉ còn vài tháng. Nếu không có một cơ chế linh hoạt, đặc biệt để tháo gỡ nhanh các rào cản thể chế, chúng ta khó có thể đạt được mục tiêu trở thành nước phát triển vào năm 2045 như Đảng ta đã xác định. Vì vậy, đề nghị Quốc hội sớm thông qua nghị quyết này và cho phép có hiệu lực ngay sau khi được thông qua.
Trao quyền cho Chính phủ có kiểm soát, giám sát
Kết luận phiên thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định nhấn mạnh: Đây là một cơ chế đặc biệt, được xây dựng trên nền tảng thực hiện Nghị quyết số 66 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế. Ban Chỉ đạo Trung ương do Tổng Bí thư làm Trưởng ban đã xác định: Xử lý vướng mắc do quy định pháp luật là công việc cấp bách, hệ trọng, phức tạp; nếu không kịp thời giải quyết sẽ cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó, đây không chỉ là một yêu cầu chính trị mà là một mệnh lệnh cần triển khai ngay và quyết liệt.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định. Ảnh: VPQH
Nghị quyết này là sự kế thừa, phát triển từ Điều 13 Nghị quyết 190 của Quốc hội khóa XV tại kỳ họp bất thường lần thứ 3, trong đó cho phép Chính phủ được ban hành một số văn bản có nội dung khác với luật, nhằm điều chỉnh những bất cập do việc sáp nhập bộ ngành mà chưa kịp sửa đổi đồng bộ trong hệ thống pháp luật.
“Khi đó, đã có hơn 7.000 văn bản phải rà soát và điều chỉnh tên gọi, chức năng của các cơ quan”- Phó Chủ tịch Quốc hội cho biết.
Theo Phó Chủ tịch, Nghị quyết lần này mở rộng hơn về phạm vi và tác động: hiện nay có hơn 19.000 văn bản bị ảnh hưởng, trong đó có hơn 200 luật, nghị quyết của Quốc hội, và con số này còn tiếp tục tăng. Quốc hội không thể họp liên tục để điều chỉnh kịp thời từng văn bản. Do đó, cần trao thẩm quyền phù hợp cho Chính phủ trong một khung pháp lý đặc biệt, có kiểm soát, có giám sát, để xử lý trước mắt và chuẩn bị tốt hơn cho việc sửa luật sau.
Về tên gọi, có đại biểu đề nghị thêm từ “tạm thời”, chúng tôi thấy rằng như vậy là chưa chính xác. Nếu gọi là “tạm thời”, sẽ không thể hiện hết tính pháp lý vững chắc và cấp bách của nghị quyết. Thay vào đó, cần thể hiện đây là giải pháp đặc biệt, là cơ chế khẩn cấp để xử lý những điểm nghẽn do chính quy định pháp luật gây ra.
Một nội dung rất quan trọng là nguyên tắc thực hiện nghị quyết. Các đại biểu yêu cầu phải làm rõ: Các văn bản được ban hành theo nghị quyết này chỉ được làm cho tốt hơn, không được gây thêm gánh nặng, không được làm xấu đi điều kiện kinh doanh, không được tăng chi phí tuân thủ, không được làm chậm phát triển. Đây sẽ là nguyên tắc xuyên suốt.
Chính phủ cũng đã trình rõ: Tất cả các văn bản được ban hành theo nghị quyết sẽ có mã số riêng, bắt đầu bằng số “66” để đảm bảo tính minh bạch, truy xuất nguồn gốc và kiểm soát. Đồng thời, nghị quyết có thời hạn áp dụng đến hết tháng 5/2027, sau đó các nội dung được xử lý thông qua sửa đổi, bổ sung luật.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định cho biết, sẽ phối hợp chặt chẽ với Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội, các Ủy ban chuyên môn để hoàn thiện nghị quyết này với chất lượng cao nhất, bảo đảm đúng mục tiêu, phạm vi, nguyên tắc đề ra, góp phần tháo gỡ vướng mắc pháp lý, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn chuyển tiếp.