80 năm Chính phủ: Đoàn kết, đổi mới, vì dân phục vụ
80 năm qua, Chính phủ kiên định “lấy dân làm gốc”, đổi mới tư duy, phát huy đại đoàn kết để hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.
Sáng 20/8, trong không khí chào mừng Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Chính phủ được tổ chức trọng thể tại Hà Nội.
Dự Lễ kỷ niệm có các đồng chí: Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; Lương Cường, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Trần Thanh Mẫn, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cùng các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
Đoàn đại biểu Bộ Công Thương do đồng chí Nguyễn Hồng Diên, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương, dẫn đầu; cùng dự có các đồng chí Thứ trưởng và thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Bộ.
Tại buổi lễ, đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ thay mặt Chính phủ trình bày Diễn văn kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Chính phủ.
Đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ, trình bày Diễn văn kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Chính phủ. Ảnh: Nam Nguyễn
Những thành tựu xoay chuyển cục diện đất nước
Trong không khí hào hùng của những ngày mùa Thu lịch sử, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phấn khởi kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công, Ngày truyền thống Công an nhân dân và Quốc khánh 2/9, Lễ kỷ niệm 80 năm thành lập Chính phủ (28/8/1945 – 28/8/2025) được tổ chức long trọng. Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt, không chỉ để ôn lại truyền thống, tri ân và học hỏi các thế hệ đi trước, mà còn khẳng định quyết tâm hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, văn minh, phồn vinh, thịnh vượng.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng gửi tới đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, đồng chí nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương, địa phương, cùng các vị đại biểu, khách quý và toàn thể đồng bào, chiến sĩ cả nước lời chào trân trọng, lời biết ơn sâu sắc và lời chúc mừng tốt đẹp nhất.
Trong lễ kỷ niệm trọng thể này, Thủ tướng bày tỏ lòng thành kính tưởng nhớ và biết ơn vô hạn Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người thầy vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá thế giới của Việt Nam - Người "làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta". Đồng thời, ghi nhớ công lao to lớn của các bậc tiền bối cách mạng; tri ân, biết ơn các Anh hùng liệt sĩ đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc và những đau thương, mất mát vô bờ bến của các Mẹ Việt Nam anh hùng, các đồng chí thương binh, bệnh binh, cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến, gia đình có công với cách mạng.
Thủ tướng cũng bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới các tầng lớp nhân dân, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, công nhân, nông dân, trí thức, văn nghệ sĩ, doanh nhân, thanh niên, phụ nữ, đồng bào các dân tộc, tôn giáo và kiều bào ta ở nước ngoài đã bền bỉ cống hiến, nỗ lực không ngừng cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thân yêu.
Theo Thủ tướng Chính phủ, ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra Tuyên cáo trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới về việc thành lập Chính phủ mới, đồng thời công bố danh sách Nội các thống nhất quốc gia gồm 15 thành viên do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Đây là dấu mốc lịch sử trọng đại, đánh dấu sự ra đời của Chính phủ cách mạng đầu tiên trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, với 13 bộ gồm: Ngoại giao, Nội vụ, Thông tin – Tuyên truyền, Quốc phòng, Thanh niên, Kinh tế quốc gia, Cứu tế xã hội, Tư pháp, Giao thông Công chính, Lao động, Y tế, Tài chính và Quốc gia Giáo dục.
Nhìn lại chặng đường 80 năm xây dựng và trưởng thành, Chính phủ Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn cam go, thử thách nhưng cũng đầy vinh quang và tự hào. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các đồng chí Tổng Bí thư qua các thời kỳ, Chính phủ - từ Chính phủ lâm thời năm 1945 đến Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay - luôn đoàn kết, thống nhất, “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”. Toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và Nhân dân đã nỗ lực phấn đấu vì mục tiêu “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” và cuộc sống ấm no, hạnh phúc của Nhân dân.
Trong hành trình ấy, Chính phủ đã đạt được nhiều thắng lợi to lớn, tạo nên những bước ngoặt có tính chất “xoay chuyển tình thế, chuyển đổi trạng thái”, có thể khái quát ở 8 thành tựu nổi bật.
Các đại biểu tham dự lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Chính phủ. Ảnh: Nam Nguyễn
Một là, tập trung xây dựng nước Việt Nam mới, Chính phủ mới và bảo vệ thành quả của Cách mạng tháng Tám. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xoá bỏ hơn 1.000 năm chế độ phong kiến, đập tan ách thống trị gần 100 năm của thực dân, phát-xít, mở ra kỷ nguyên mới -Kỷ nguyên độc lập, tự do cho Nhân dân, cho đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Chính phủ lâm thời vừa tập trung tổ chức, xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, vừa chống “thù trong, giặc ngoài”, vừa xây dựng và củng cố tiềm lực đất nước. Tổ chức rộng khắp Phong trào “Diệt giặc đói” với “Hũ gạo cứu đói”, Phong trào “Diệt giặc dốt” với “Bình dân học vụ”, Phong trào “Tuần lễ vàng” để quyên góp tài lực cho nền tài chính quốc gia non trẻ (cả nước quyên góp được 370 kg vàng).
Chính phủ lâm thời lúc bấy giờ tổ chức Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 06/01/1946. Ngày 02/3/1946, Quốc hội khoá I tại kỳ họp thứ nhất đã thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến gồm 14 thành viên và ngày 09/11/1946, tại kỳ họp thứ 2 đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hai là, gánh vác sứ mệnh lịch sử góp phần thực hiện thắng lợi cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược với đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Trước âm mưu cướp nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, đêm ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, thể hiện sự sẵn sàng hy sinh và quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc ta tiến hành “Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến”. Trong bối cảnh muôn vàn khó khăn, Chính phủ tập trung chỉ đạo ổn định đời sống nhân dân, sắp xếp hệ thống chính quyền địa phương, phát triển lực lượng vũ trang ngày càng lớn mạnh, giành được những chiến thắng quan trọng tại Chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông 1947, Chiến dịch Biên giới - Thu Đông 1950, Chiến cuộc Đông - Xuân 1953 - 1954…, tiến tới Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954, buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Giơ-ne-vơ với Chính phủ ta do đồng chí Phạm Văn Đồng, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao làm Trưởng đoàn về chấm dứt chiến tranh, khôi phục hoà bình ở Đông Dương.
Ba là, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi cuộc Kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Nhằm phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, thực dân Pháp và sau đó là đế quốc Mỹ dã tâm chia cắt nước ta, dựng lên chính quyền tay sai bù nhìn ở miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, với niềm tin vững chắc và khát vọng cháy bỏng hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất đất nước, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo, huy động sức mạnh toàn dân tộc gắn với sức mạnh thời đại, thực hiện đồng thời 02 nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước ở miền Nam. Miền Bắc đã trở thành “hậu phương lớn”, chi viện cho miền Nam ruột thịt là “tiền tuyến lớn”; tổ chức rộng khắp nhiều phong trào thi đua như “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”, “Gió Đại phong”, “Trống Bắc Lý”, “Sóng Duyên hải”, “Cờ Ba Nhất”…
Toàn cảnh lễ kỷ niệm. Ảnh: Nam Nguyễn
Nhờ phát huy cao độ sức mạnh của “ba mũi giáp công” chính trị, quân sự và ngoại giao, chúng ta đã làm nên những chiến công lừng lẫy như Tết Mậu thân 1968, Chiến thắng “Điện Biên phủ trên không 1972”, và đặc biệt là Đại thắng mùa Xuân 1975 với đỉnh cao là ngày toàn thắng 30/4/1975 của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước sau hơn 20 năm chia cắt, Bắc - Nam sum họp một nhà. Trong đó, dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ đã đàm phán, ký kết Hiệp định Paris năm 1973, hướng tới chấm dứt chiến tranh, mang lại hoà bình ở Việt Nam và Đông Dương (đồng chí Cố vấn Lê Đức Thọ, đồng chí Xuân Thủy là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng phái đoàn của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và đồng chí Nguyễn Thị Bình là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tham gia Hội nghị đàm phán 4 bên tại Paris).
Bốn là, tập trung xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, tổ chức công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh. Sau khi đất nước được thống nhất, tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI (1976) đã quyết định tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ (từ tháng 7/1981 đến tháng 9/1992 là Hội đồng Bộ trưởng) tập trung chỉ đạo bắt tay vào xây dựng và phát triển kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục sản xuất kinh doanh, đồng thời tiếp tục chiến đấu bảo vệ vững chắc biên giới và thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả giúp Nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng. Trước tình trạng trì trệ của nền kinh tế với mô hình quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, đời sống Nhân dân gặp nhiều khó khăn, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới tư duy quản lý kinh tế với Chỉ thị 100 ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư, “Khoán 10” theo Nghị quyết 10 ngày 05/4/1988 của Bộ
Chính trị trong nông nghiệp và “3 kế hoạch” đối với khu vực công thương theo Quyết định 25/CP ngày 21/01/1981 của Hội đồng Chính phủ về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính cho các xí nghiệp quốc doanh. Từ một nước thiếu đói, Việt Nam đã tự túc lương thực, bắt đầu xuất khẩu gạo sau 01 năm thực hiện “Khoán 10” và ngày nay trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Những kết quả đổi mới bước đầu này đã góp phần làm thay đổi cục diện tình hình kinh tế - xã hội, đất nước thoát nghèo, từng bước hình thành và củng cố các luận điểm xuất phát từ thực tiễn vềphát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm là, thực hiện thành công chủ trương, đường lối đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đã mở ra kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên đổi mới, hội nhập và phát triển của đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng hành của Quốc hội, Hội đồng Bộ trưởng (từ tháng 10/1992 là Chính phủ) đã chủ động, tích cực chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế với 03 trụ cột: Xóa quan liêu bao cấp; phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa sở hữu và mở cửa, hội nhập với bên ngoài. Tập trung đổi mới đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực, từ xây dựng thể chế, pháp luật đến phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, chăm lo đời sống Nhân dân đến củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế. Việt Nam từ một nền kinh tế dựa vào viện trợ, bị bao vây, cấm vận đã trở thành một nền kinh tế mở, năng động, sáng tạo, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực, thế giới, thuộc nhóm 15 quốc gia thu hút đầu tư nước ngoài hàng đầu và nhóm 20 quốc gia có quy mô thương mại lớn nhất toàn cầu. Đặc biệt, chúng ta đã huy động nguồn lực, tập trung thực hiện hiệu quả các chính sách bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, giảm nghèo bền vững, không ngừng nâng cao đời sống tinh thần, vật chất của Nhân dân. Việt Nam được đánh giá là hình mẫu thành công trong thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), hoàn thành mục tiêu xóa đói giảm nghèo trước thời hạn 10 năm.
Sáu là, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; đẩy mạnh toàn diện công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định cho hợp tác và phát triển đất nước. Phát huy truyền thống anh hùng của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân trong suốt chiều dài lịch sử của Cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ủng hộ của Quốc hội, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo, ưu tiên bố trí nguồn lực để củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc; phát triển mạnh công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh lưỡng dụng; tăng cường phòng, chống tội phạm, giữ gìn cuộc sống bình yên cho Nhân dân.
Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh toàn diện, sâu rộng, kế thừa, phát huy truyền thống ngoại giao hòa hiếu của dân tộc và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng vạn biến” - kết hợp hài hòa giữa độc lập, tự chủ, kiên định về chiến lược với mềm dẻo, linh hoạt về sách lược, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết. Cục diện đối ngoại không ngừng được mở rộng; Việt Nam đã gia nhập Liên Hợp Quốc (1977), ASEAN (1995), ký Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ (2000) và đến nay đã ký kết, tham gia 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA); có quan hệ ngoại giao với gần 200 nước; quan hệ đối tác toàn diện, đối tác chiến lược hoặc đối tác chiến lược toàn diện với 38 nước, trong đó có tất cả 5 nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, làm cho đất nước ta “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Việt Nam đã và đang tiếp tục đóng góp tích cực, hiệu quả vào giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu, cả Quân đội và Công an đều tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, ngưỡng mộ.
Bảy là, tập trung thực hiện quyết liệt, hiệu quả chủ trương sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và xây dựng mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, Chính phủ đang tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện, cụ thể hóa chủ trương, quyết sách của Đảng thành những chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, trước hết là tập trung thực hiện cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy, “sắp xếp lại giang sơn”; tinh gọn bộ máy ở Trung ương; sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã, kết thúc sứ mệnh lịch sử của cấp huyện và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp. Sau sắp xếp, tinh gọn, Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 có 14 bộ, 3 cơ quan ngang bộ và 5 cơ quan thuộc Chính phủ; chính quyền địa phương 2 cấp với 34 tỉnh, thành phố và 3.321 xã, phường, đặc khu. Đồng thời chuyển đổi trạng thái từ nền hành chính quản lý sang nền hành chính kiến tạo, phục vụ Nhân dân bước đầu đã hoạt động ổn định, thông suốt; giải quyết thủ tục hành chính nhanh chóng, thuận lợi hơn, tiết kiệm thời gian, chi phí đi lạicho người dân, doanh nghiệp.
Tám là, phát triển toàn diện đất nước, xây dựng nền tảng, tầm nhìn, tạo đột phá phát triển trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc. Phát huy những thành tựu quan trọng trong những năm qua, để đạt được 2 mục tiêu chiến lược 100 năm theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng hành của Quốc hội, Chính phủ tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương nỗ lực phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu của năm 2025, nỗ lực phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP trên 8%, tạo đà, tạo lực, tạo thế, tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng hai con số tronggiai đoạn 2026-2030 và những năm tiếp theo.
Tích cực,chủ động đóng góp hiệu quả hoàn thiện dự thảo Báo cáo chính trị và dự thảo Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV; trong đó thúc đẩy 03 trụ cột: xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, giám sát của Nhân dân. Thực hiện quan điểm xuyên suốt lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, là nguồn lực và là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển; không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội, an sinh xã hội, môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.
Chính phủ tập trung triển khai quyết liệt, đồng bộ các chủ trương lớn của Đảng: phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường; xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đội ngũ cán bộ; phát triển văn hóa như nền tảng tinh thần và động lực phát triển; củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại, hội nhập quốc tế; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; bảo đảm an sinh xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau. Đến nay, mục tiêu xóa nhà tạm, dột nát trên cả nước đã cơ bản hoàn thành trước thời hạn hơn 5 năm, với trên 334.000 căn được xây dựng, sửa chữa.
Chính phủ đồng thời thúc đẩy ba đột phá chiến lược, xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các trụ cột phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, hội nhập quốc tế, xây dựng và thực thi pháp luật, phát triển kinh tế tư nhân được triển khai quyết liệt.
Phát huy sức mạnh nhân dân, khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước hùng cường
Với phương châm “nguồn lực từ tư duy, động lực từ đổi mới, sức mạnh từ nhân dân và doanh nghiệp”, Chính phủ ưu tiên huy động nội lực, đồng thời khai thác hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Hạ tầng kinh tế - xã hội được đẩy mạnh, tạo chuyển biến rõ rệt trong diện mạo đất nước. Nhiều dự án trọng điểm đang triển khai như đường sắt tốc độ cao, cao tốc, đường ven biển, sân bay, cảng biển, hạ tầng số, giáo dục, y tế, văn hóa và điện hạt nhân. Dự kiến đến năm 2025, cả nước sẽ vượt chỉ tiêu với 3.000 km đường cao tốc và 1.000 km đường ven biển.
Trong 80 năm lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ các nhiệm kỳ luôn thể hiện quyết tâm, nỗ lực và hành động quyết liệt, cùng Nhân dân và chiến sĩ cả nước đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên mọi lĩnh vực. Từ thực tiễn đó, có thể rút ra những bài học sâu sắc:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Chính phủ phải coi đây là điều kiện tiên quyết và là kim chỉ nam trong mọi hoạt động.
Hai là, lấy dân là gốc; sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; xác định người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể trong mọi hoạt động của Chính phủ.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết; đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế; Chính phủ phải tạo mọi điều kiện thúc đẩy, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế; Chính phủ phải là nòng cốt trong kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh ngoài nước, kiên định, kiên trì tinh thần độc lập tự chủ.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; vì vậy mọi hoạt động của Chính phủ phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, mọi mặt của Đảng mà thường xuyên trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư.
Bước vào giai đoạn mới, trong bối cảnh thời cơ và thách thức đan xen, Chính phủ kiên định phương châm “lấy dân làm gốc, vì dân phục vụ”, đổi mới tư duy, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; quyết tâm cùng cả nước thực hiện thắng lợi hai mục tiêu chiến lược 100 năm mà Đại hội XIII đã đề ra.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong hệ thống hành chính nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; đồng thời kêu gọi đồng bào, chiến sĩ trong và ngoài nước, cộng đồng doanh nghiệp phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, nhân ái, tự lực, tự cường, chung tay xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng, hạnh phúc.
Nhân dịp này, Chính phủ trân trọng cảm ơn và mong muốn các tổ chức quốc tế, quốc gia, đối tác, bạn bè năm châu tiếp tục đồng hành, hợp tác cùng Việt Nam trong tiến trình đổi mới, hội nhập, hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.
80 năm Chính phủ – một hành trình đoàn kết, bản lĩnh và khát vọng. Với sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng hành của Quốc hội, sự ủng hộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và toàn dân, Thủ tướng tin tưởng chắc chắn đất nước sẽ thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược, vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, sánh vai cùng cường quốc năm châu như Bác Hồ hằng mong muốn.