Khi mỳ Chũ, vải thiều thành ‘đại sứ’ du lịch và thương hiệu
Sau sáp nhập, Bắc Ninh khai thác du lịch văn hóa để quảng bá sản phẩm đặc trưng vùng dân tộc, xây dựng chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ, nâng tầm thương hiệu đặc sản.
Con đường ngắn nhất đến trái tim du khách
Sau khi sáp nhập với Bắc Giang, Bắc Ninh mở ra một không gian mới giàu sắc thái: từ đất Kinh Bắc văn hiến đến những vùng dân tộc thiểu số trồng vải thiều, làm mỳ Chũ. Sự kết nối này không chỉ bổ sung cho bản đồ kinh tế tỉnh mà còn tạo ra lợi thế độc đáo khi gắn kết sản phẩm nông nghiệp bản địa với du lịch văn hóa - trải nghiệm.
Hiện nay, chương trình “OCOP làm đại sứ du lịch” đang trở thành hướng đi chủ lực. Toàn tỉnh có 773 sản phẩm OCOP, trong đó vải thiều Lục Ngạn Hồng Xuân đạt chuẩn 5 sao, hàng trăm sản phẩm 4 sao, 3 sao. Bên cạnh đó là nhiều sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu. Nhưng điều đáng nói hơn, Bắc Ninh không chỉ coi đó là sản phẩm thương mại đơn thuần, mà nâng tầm thành câu chuyện văn hóa để giới thiệu tới bạn bè trong và ngoài nước.
Du lịch mùa vải thiều là một trong những trải nghiệm đáng nhớ (Ảnh: Báo Nhân dân)
Những tour du lịch mùa vải chín, trải nghiệm hái quả tại vườn hay tham quan làng nghề làm mỳ gạo Chũ ở phường Chũ đang tạo sức hút lớn. Hợp tác xã Thương mại Du lịch Trù Hựu còn tổ chức tour cho du khách Nhật Bản, Pháp tới tận vườn trải nghiệm. Du khách không chỉ thưởng thức đặc sản mà còn tận mắt chứng kiến quy trình sản xuất, từ đó mang về những ký ức bền chặt hơn cả một món quà.
Trong bức tranh ấy, sản phẩm bản địa không chỉ là “đặc sản quê hương” mà trở thành “đại sứ du lịch”, mang trong mình linh hồn văn hóa và sự hiếu khách của vùng đất mới hợp nhất.
Mỳ Chũ đầy sắc màu là sản phẩm đặc trưng của Bắc Ninh (Ảnh minh hoạ)
Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, bà Nguyễn Thị Trà, Phó Giám đốc HTX Nông sản sạch Bình Nguyên cho biết, du lịch nông nghiệp đã và đang trở thành hướng đi hiệu quả mỗi mùa vải hoặc bưởi, cam… Du khách đến với các HTX không chỉ để nghỉ ngơi, thư giãn mà còn để mua bán sản phẩm từ chính gốc, giá cả phải chăng. Đây không chỉ là cách quảng bá hữu hiệu cho sản phẩm, gia tăng tiêu thụ mà còn giúp cho người nông dân có thêm thu nhập.
Xây dựng chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm bền vững
Nếu du lịch tạo ra kênh quảng bá cảm xúc thì chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ mới là điều kiện sống còn để nông sản Bắc Ninh đứng vững. Thời gian qua, chính quyền tỉnh đã triển khai quy hoạch vùng nguyên liệu, cấp mã số vùng trồng, thúc đẩy truy xuất nguồn gốc và khuyến khích sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP.
Nhiều sản phẩm đã có mặt tại hệ thống siêu thị lớn và trên các sàn thương mại điện tử. Nông sản an toàn từ làng vào siêu thị, ra thế giới không còn là khẩu hiệu mà đang trở thành hiện thực nhờ sự tham gia của cả hợp tác xã lẫn doanh nghiệp.
Năm 2025, UBND tỉnh phối hợp với doanh nghiệp Dragonberry Produce (Mỹ) xuất thành công 100 tấn vải tươi vào hệ thống siêu thị Costco
Câu chuyện vải thiều là minh chứng rõ nét. Năm 2025, UBND tỉnh phối hợp với doanh nghiệp Dragonberry Produce (Mỹ) xuất thành công 100 tấn vải tươi vào hệ thống siêu thị Costco - một bước ngoặt quan trọng để khẳng định vị thế nông sản vùng dân tộc thiểu số Bắc Ninh trên bản đồ thế giới. Không chỉ vậy, qua livestream thương mại điện tử, hàng trăm tấn vải đã được tiêu thụ ngay trong vài giờ, chứng minh sức mạnh của công nghệ số trong mở rộng thị trường.
Bà Nguyễn Thị Thảo - Giám đốc một HTX trồng vải tại xã Lục Ngạn chia sẻ: “Trước đây bà con chủ yếu bán qua thương lái, giá bấp bênh. Nhưng nay nhờ có mã vùng trồng và truy xuất nguồn gốc, sản phẩm được ký hợp đồng bao tiêu, dễ dàng đưa vào siêu thị và xuất khẩu. Người dân yên tâm sản xuất hơn, doanh thu tăng rõ rệt”.
Chị Nguyễn Thị Hải, dân tộc Tày, tổ trưởng Tổ hợp tác và tiêu thụ nông sản bản Tràng Bắn, xã Đồng Vương (Yên Thế) là một điển hình làm kinh tế giỏi và giúp được nhiều hội viên là người DTTS trong vùng thoát nghèo. Từ hộ thu mua nông sản nhỏ lẻ, năm 2020, được sự hỗ trợ từ UBND xã Đồng Vương, chị Hải thành lập Tổ hợp tác và tiêu thụ nông sản bản Tràng Bắn. Các thành viên Tổ hợp tác được chị Hải cung cấp cây giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… hướng dẫn phương pháp chăm bón đồng thời bao tiêu sản phẩm. Mùa nào thức nấy, nông sản bà con làm ra như khoai tây, hành, tỏi, ớt, cà chua… được chị thu mua tận ruộng, đưa về cơ sở sơ chế rồi đóng gói đưa đi tiêu thụ. Thông qua liên kết sản xuất, sau khi trừ chi phí, gia đình chị Hải có lãi hơn 300 triệu đồng. Mô hình của chị còn tạo việc làm, thu nhập cho hàng nghìn lao động trong và ngoài địa bàn.
Như vậy, nếu chính quyền và doanh nghiệp đồng hành, sản phẩm bản địa hoàn toàn có thể vượt khỏi vòng luẩn quẩn “được mùa - mất giá” để bước lên một nấc thang mới về giá trị.
Tuy nhiên, hành trình xây dựng thương hiệu không trải hoa hồng. Một trong những thách thức lớn là sự thiếu đồng đều trong việc áp dụng tiêu chuẩn kỹ thuật. Chi phí chứng nhận VietGAP, GlobalGAP vẫn cao, nhiều hộ dân khó tiếp cận. Doanh nghiệp chế biến sâu còn ít, khiến sản phẩm chưa gia tăng nhiều giá trị.
Cạnh tranh quốc tế cũng gay gắt. Những vùng trồng vải ở Thanh Hà (Hải Dương), Hưng Yên hay ngay cả Thái Lan, Trung Quốc đều là đối thủ lớn. Nếu Bắc Ninh chỉ dựa vào sản phẩm tươi, khó có lợi thế bền vững. Muốn vươn xa, tỉnh cần đầu tư mạnh hơn vào công nghiệp chế biến, bảo quản hiện đại, đa dạng hóa sản phẩm như nước ép, mứt, đồ sấy.
Mặt khác, việc kể câu chuyện thương hiệu vẫn còn khiêm tốn. Du khách nhớ đến quan họ Bắc Ninh, nhưng chưa chắc đã gắn ngay hình ảnh đó với mỳ Chũ hay vải thiều. Đây là khoảng trống mà các chiến dịch truyền thông, xúc tiến thương mại, và liên kết vùng cần bổ sung mạnh mẽ.
Việc sáp nhập Bắc Giang vào Bắc Ninh không chỉ thay đổi ranh giới hành chính mà còn mở ra cơ hội định vị lại bản sắc kinh tế - văn hóa. Mỳ Chũ, vải thiều không chỉ là sản vật vùng dân tộc, mà khi gắn với du lịch và chuỗi liên kết thị trường, chúng trở thành “đại sứ thương hiệu” đưa hình ảnh Bắc Ninh ra thế giới.